Mọi trao đổi xin liên hệ: bientaynguyen@gmail.com

Saturday, November 9, 2013

ĐỐI MẶT

Tác giả ảnh: Hòa Carol
   Có cái gì đó không ổn thì phải. Trời chẳng mưa thuận gió hòa mà lòng người cũng hình như bị vón cục lại rồi họ đem đi ném lẫn nhau....
   Người ta nháo nhác chỉ vì “nghe đồn” có một con chuột trong một nồi hủ tiếu gõ. Khiến cho ai đã từng ăn món ấy phải kinh hãi. Còn người kiếm sống nhờ món ấy thì chẳng có tiền đi chợ. Trong khi ngày ngày con người ta vẫn ăn cái thứ gạo tẩy trắng, rắc hạt nêm vào món ăn để đánh lừa vị giác mà không biết khoảng hai mươi năm nữa những hạt nêm ấy sẽ tích tụ trong gan của mình là bao nhiêu... Có một thời gian người ta đồn bưởi Năm Roi có tố chất gây ung thư làm cho nông dân trồng bưởi điêu đứng. Lâu lâu lại có tin đồn loại cá này, cây rau kia là không ăn được. Chẳng biết rồi những chuyện này sẽ đi đến đâu nhưng ít ra người làm báo cũng có tiền nhuận bút sau mỗi phi vụ phanh phui không có hồi kết.
   Tây Nguyên gần như sẽ được trời ban mưa nếu miền trung gánh bão. Sao nghe nao lòng đến dữ vậy. Nhưng biết thế nào được, đó là quy luật của đất trời. Có bão thì nó hút mây rồi khi vào đất liền thì nó trả mây về gây mưa. Đôi lúc người Tây Nguyên hả hê vì có được cơn mưa cho nương rẫy khỏi héo khô, cho cà phê, hồ tiêu nhanh chín thì hỡi ôi đồng bào miền trung đang khóc vì bão đánh bay nhà, một gói mì tôm cũng không có. Cứ như thể Tây Nguyên là bãi bồi còn miền Trung là bãi lở. Nếu ai cũng bồi thì ở lở thì đi thì chẳng có cây viết nào dám phóng bút rằng người miền Trung chịu thương chịu khó nữa và sẽ chẳng có nhạc sĩ nào làm lòng người nhíu lại khi nghe những câu hát về miền Trung.
   Chẳng biết xấu tốt thế nào, người ta cứ nhắm thẳng mặt người đứng đầu mà đe dọa, mà chửi thề, mà gửi những lời khen xen lẫn nhưng điều nghi kị. Kẻ ở ngoài cuộc cứ xem, xem và xem. Việc gì phải đánh giá kẻ đầu têu, quan trọng là xem việc làm đó có thỏa lòng dân không. Nếu không tin thì đừng trao tiền gửi bạc và nếu không có bản lĩnh làm kẻ đứng đầu thì đừng có hơi một tí là đào khoét cho to chuyện thêm.
   Cái tốt phải đối mặt với cái xấu. Sự sâu sắc ẩn chưa trong muôn vàn sự nông cạn. Chỉ có người quân tử luôn đối diện với những kẻ dường như rất giống mình đó là những tên ngụy quân tử.

Buôn Ma Thuột – Cuối mùa bão lũ 2013 – Tây Nguyên Xanh 
No comments

Friday, November 8, 2013

NHÓM PHÒNG CHỐNG ĂN VỤNG CỦA LŨ CHUỘT

Nguồn ảnh: internet
   Nửa đêm, lũ chuột nháo nhào chạy thừa sống thiếu chết chỉ vì một con trong số đó ngửi được mùi cứt mèo. Khiếp! Mèo ở thành phố có khác, chẳng biết vùi cái thứ tạp uế ấy vào tro gì cả. Cũng đúng thôi, ở thành phố thì làm gì có tro trong bếp. Cái mùi ấy rõ là không lẫn đi đâu được.
   Cái nhà này giàu có thôi rồi. Bánh trái chỉ ăn vài miếng rồi vứt đi. Cuộc sống của lũ chuột xưa nay vẫn khấm khá nhờ sự vung vãi của con người. Đoành một phát! Nhà có tiếng mèo con khóc meo meo gọi mẹ. Lũ chuột nghe đã thất kinh rồi nhưng bụng nghĩ đó là mèo của nhà hàng xóm. Tối hôm ấy cả đàn vẫn kiếm ăn như mọi khi nhưng một con suýt đụng mũi vào cứt mèo thì chạy thí xác. Cả lũ về ổ nhìn nhau và chít chít inh ỏi. Một con lớn tuổi nhất đàn ra ý kiến:
    - Giờ thì đã chắc chắn có một con mèo ở vùng kiếm ăn của chúng ta. Vì vậy tôi đề nghị chúng ta phải họp bàn kế sách lâu dài. Vậy nên...
Một con chuột bé tí nói chen vào:
    - Chỉ là một mống mèo non. Lo gì.
    - Trẻ con không được cắt lời của người lớn – một con chuột sồ sề mắng.
Con chuột lớn kia lại tiếp:
    - Đúng thế, nó chỉ là một con mèo đang thèm sữa mẹ cho nên chúng ta phải tranh thủ lúc nó còn nhỏ để kiếm và dự trữ thức ăn. Chúng ta phải kiên quyết ngăn chặn tình trạng ăn vụng bánh trong ổ của chúng ta.
    - Phải dự trữ thì rõ rồi nhưng ngăn chặn ăn vụng kiểu gì.
    - Chúng ta phải lập ra nhóm phòng chống Ăn Vụng trực thuộc đội Bảo Vệ Sự Sống của loài chuột.
    - Lương bổng thế nào?
    - Quyền lợi cũng như anh em chiến sĩ của đội Bao Vệ Sự Sống thôi. Mỗi ngày được cấp một mẫu bánh trong quỹ bánh của ổ.
    - Nghe có vẻ khả thi đấy. Tôi đồng ý. Có ai phản đối không?
Lũ chuột đồng loạt:
    - Chít chít, đồng ý, đồng ý, chít chít
Ở cái hang bên cạnh, lão dế mèn vuốt râu, cười phe phé:
    - Khặc khặc, đã là chuột thì tránh thế nào được cái sự ăn vụng. Bày đặt lập nhóm phòng chống Ăn Vụng nữa mới ghê chứ. Để rồi xem, sẽ lại có cuộc chạy đua xu nịnh với cả hối lộ để được vào nhóm phòng chống ấy. Thằng nào giữ chìa khóa thì thằng ấy biết cách ăn vụng sạch sẽ và đẹp đẽ nhỉ?
   Lão dế tự hỏi và tự ngộ ra câu trả lời và vỗ cánh kêu inh ỏi làm màn đêm thêm huyên náo.

Buôn Ma Thuột – 8/11/2013 –Tây Nguyên Xanh
No comments

Wednesday, November 6, 2013

PHÍA SAU LÀNG

VĂN CÔNG HÙNG 
Nguồn: Website Văn Công Hùng 
   Ấn tượng nhất khi chúng tôi rời Kon Mahar là vào khu nhà mồ của làng. Người Tây Nguyên rất coi trọng khu nhà mồ, nó là ngôi làng thứ 2 của họ, thậm chí làm nhà mồ còn kỳ khu hơn, đẹp hơn làm nhà ở. Nhưng ở đây là những nấm đất sơ sài, phía trên phủ tranh lè tè như bọn trẻ con chơi trò chơi làm nhà xem ai nhanh hơn…
   Rất nhiều người chưa hiểu, chưa phân biệt Buôn với Plei, ví như tại sao lại là Buôn Ma Thuột chứ không phải Buôn Mê Thuột. Hoặc Ban Mê Thuột chứ không thể Ban Ma Thuột. Đơn giản, Buôn Ma Thuột là tiếng Ê Đê, tức là buôn của cha ông Thuột, còn Ban Mê Thuột là gọi theo tiếng Lào, tức là Bản của mẹ ông Thuột. Pleiku tức là làng đuôi, từ sự tích cái đuôi lợn. Giờ chúng ta gộp hết thành làng, thậm chí là làng văn hóa với cái cổng chào hoành tráng như nhau, nhưng vào từng buôn, plei, plơi… thì nó không giống nhau như cổng làng văn hóa…
Ảnh: Chính Hữu

TÂY NGUYÊN MỘT THỜI
   Ngày ấy, đầu những năm 80 của thế kỷ 20, khi lần đầu tiên đặt chân lên Tây Nguyên, chàng kỹ sư trẻ Phạm Đức Long đã giật mình. Từ quê mình ở Nghệ An, ra Hà Bắc học đại học nông nghiệp, đều là những nơi đất chật người đông, mảnh đất con con bằng bàn tay mà nhiều thế hệ xúm vào xới lật bắt nó quần quật sinh sản. Giờ vào Tây Nguyên, thấy bao la là rừng, mênh mang đồng cỏ (ta man), trùng trùng ngút mắt, không sửng sốt sao được.
   Anh vào nhận công tác tại ban kinh tế mới Gia Lai Kon Tum, sau rồi về sở Nông nghiệp và phát triển nông thôn, hiện tại là chi cục trưởng chi cục phát triển nông thôn Gia Lai.
   Mới đây anh rủ: Biết bác cũng thích tìm hiểu về nông dân, mai em đi công tác, bác có xuống làng, mời bác đi luôn.
   Tất nhiên là tôi hăm hở nhận lời. Làng là một khái niệm mới, chứ Tây Nguyên chỉ có Buôn- vùng Ê Đê, Mơ Nông- Pơ Lây, Pơ lơi- vùng Ba Na, Gia Rai… Giờ người ta xây dựng “làng văn hóa” khiến cho tất cả cứ na ná nhau, nếu không tinh rất khó để phân biệt. Trên xe Long mở mang cho tôi nhiều kiến thức về nông thôn Tây Nguyên. Nói về nông nghiệp Gia Lai nói riêng, Tây Nguyên nói chung, có điều kiện chung giống Nam bộ: Quĩ đất rộng, bình quân diện tích đất đầu người cao, dễ làm nông nghiệp chuyên canh hàng hóa lớn. Vì vậy phải xác định nông nghiệp là thế mạnh lớn nhất của Gia Lai. Đây là vùng đất của điền trang, thái ấp. Định hướng chung cứ lấy nông nghiệp làm gốc thì sẽ giàu mạnh. Không nên mơ mộng công nghiệp chế tạo, điện tử như trước đây. Hiện nay chỉ tính riêng tỉnh Gia Lai đã tạo được các vùng nông sản nguyên liệu, nông sản hàng hóa lớn vào bậc nhất Việt Nam như: Cao su gần 100.000 ha; cà phê hơn 80.000 ha; hồ tiêu khoảng 8.000 ha; bắp (lai) 50.000 ha; sắn (cao sản) 50.000 ha; mía gần 30.000 ha; thuốc lá khoảng 7.000 ha; điều khoảng 10.000 ha… Đã phát triển được hệ thống nhà máy công nghiệp chế biến nông lâm sản khá hùng mạnh, ở vùng nông thôn, gắn với vùng nguyên liệu như: Nhà máy đường An Khê công suất 7.000 tấn mía cây/ngày; nhà máy đường – Nhiệt điện Ayun Pa công suất 6.000 tấn mía cây/ngày; nhà máy sắn Krông Pa công suất 120.000 tấn tinh bột/năm; các nhà máy sắn Việt Thái An Khê, Mang Yang, Chư Prông đều ở qui mô công nghiệp lớn; 2 nhà máy chè Biển Hồ, Bàu Cạn đều có qui mô hiện đại. Các công ty nông trường hiện đều có các cơ sở sơ chế nông sản; đặc biệt là cao su. Công ty cao su công ty 74 Binh đoàn15 có nhà máy chế biến mủ cao su hiện đại và qui mô nhất Đông Nam Á… Không sổ sách, Long cứ thao thao bất tận thế trong khi tôi ngơ ngác nhìn qua kính xe, những ngọn đồi trơ trọi, những cánh rừng nham nhở cháy, những người dân đeo gùi lẳng lặng đi hàng một, nhẫn nại và cam chịu. Và những chiếc xe máy chở đủ thứ hàng hóa, những cái chợ lưu động chất ngất nghểu đủ thứ trong khả năng có thể, xe thì một người, xe thì hai, chủ yếu là phụ nữ, phóng trong cuồn cuộn bụi đỏ. Đích họ đến là những buôn làng tít trong núi xa kia…
 LÀNG
   Ngày xưa làng Tây Nguyên đẹp lắm. Bao giờ cũng ở rìa các con suối, có các “giọt” nước dẫn về làng, và làng thì chênh vênh trên đồi, giữa làng là nhà rông cao vút như lưỡi rìu ngược lên trời, xung quanh là nhà sàn như đàn gà con xúm xít quanh gà mẹ. Rẫy ở xa làng, trong rẫy cũng có nhà để người đi làm rẫy nghỉ lại, có khi cả tuần mới về. Thông thường là sáng đi tối về.
    Chúng tôi chọn xã Hà Đông, là xã xa nhất, khó đi nhất của Gia Lai tính từ tỉnh lỵ Pleiku, để đến là bởi muốn tìm một thể nghiệm, để mà so sánh với hai chục năm trước, tìm lại dư ba của ấn tượng, của cảm xúc, của những dấu ấn đói khổ một thời... Chạy qua mấy làng, cuối cùng quyết định dừng ở làng Kon Mahar của xã Hà Đông. Nó là của huyện Đắc Đoa, mà Đắc Đoa thì cách Pleiku... 15 cây số, nhưng từ huyện xuống làng này là 70 cây, đường đi hun hút xuyên qua rừng già Kon Ka King. Mùa khô thì vào được chứ mùa mưa là bó… chân chấm com. Các thầy cô giáo vào dạy mùa mưa thì cứ chuẩn bị tâm thế ở lại cả mùa. Cán bộ có muốn xuống với dân cũng chịu. Vào giữa trưa mà thấy dân ở nhà khá nhiều, tức là… thất nghiệp. Trẻ con rất đông. Bao giờ cũng thế, nghèo đói thì sinh nở nhiều. Nhưng giữa làng đang có mấy cái xe tải vào chở sắn. Bà con ở đây trồng sắn, đang mùa thu hoạch, thương lái vào tận nơi mua hoặc đổi hàng. Trẻ con nhiều đứa trên tay cầm gói bim bim hoặc phồng má mút kẹo…
   Từ huyện vào làng phải xuyên qua lõi rừng quốc gia Kon Ka King. Loang lổ những vạt rừng cháy. Lúc ra nghe rõ cả những tiếng nổ rất to từ những đám cháy ngùn ngụt. Chúng tôi hoảng hồn nhảy xuống xe chụp ảnh, còn những người Bahnar qua đường dửng dưng giải thích là... đốt rẫy đấy. Rẫy gì mà toàn cổ thụ cháy rừng rực. Cũng rất khó trách ai bởi tập quán ngàn đời là thế, lại ở sâu âm u thế, cán bộ, kiểm lâm có rải ra cũng không thể khắp được. Rồi lâm tặc người Kinh nhân đấy đánh hôi. Có một đoạn mấy thanh niên đang đốt than, chúng tôi lùi xe để ngồi trên xe chụp ảnh trong tư thế… sẵn sàng chạy vì sợ họ gây sự. Xe chúng tôi nhiều lúc đi cheo leo trên các hõm núi, nhìn sang bên kia mây trắng xóa, lại có lúc tụt xuống thung lũng, ngước lên thăm thẳm trời…
NHỮNG ĐIỀU TRÔNG THẤY
   Làng ở Gia Lai bây giờ chủ yếu đã được ngang bằng sổ thẳng, gần như của người Kinh. Vệ sinh hơn, sạch sẽ hơn, nhưng vẫn cứ thấy thiếu thiếu 1 thứ gì.
   Té ra nó là hơi thở làng.
   Nhà rông xây bằng bê tông lợp tôn chói lòa, nhà mồ cũng thế, các ngôi làng được dịch chuyển theo quy hoạch, không còn bám theo các triền suối, đặc biệt là đất đai bị thu hẹp, người dân phải đi làm thuê ngay trên đất của mình. Công cuộc… phá rừng giàu đã xong, giờ chuyển sang rừng nghèo bằng cách trồng cao su lên đấy. Nhưng không phải giao cho dân mà giao cho các doanh nghiệp. Người dân bị dồn dần vào núi xa.
   Trước mặt là đất của các ông chủ, sau lưng là rừng, là tài sản quốc gia. Người dân ngơ ngác co ro trong các ngôi làng định canh định cư hoặc đền bù tái định cư xa lạ.
    Trong khi trình độ canh tác của người dân Tây Nguyên rất thấp, nên nếu tự làm cũng không ăn thua, mà làm thuê thì cũng với giá rẻ mạt. Các lý do hiện nay khiến nông thôn Gia Lai chưa bền vững là thị trường lên xuống thất thường, thiên tai dịch bệnh và cả trộm cướp an ninh nông thôn. Ngoài cao su, cà phê, tiêu… thì 50.000 héc ta sắn đã được trồng, chỉ ở Gia Lai thôi, một mặt giải quyết một phần thu nhập (dù giá rất rẻ và rất phập phù), nhưng mặt khác nó tham gia vào việc phá rừng khủng khiếp, tàn sát môi trường và bóc lột tài nguyên đất, làm đất bạc màu rất nhanh.
   Chúng tôi nhiều lần vào các buôn làng Gia Lai, trừ bà con vùng Chư Sê, Chư Pưh khá giàu vì họ biết trồng tiêu, cao su và mấy năm nay giá các loại này cũng ổn định, còn các nơi khác phần lớn là nghèo, vì bà con vẫn sản xuất theo trào lưu, không có sự điều tiết, vai trò của nhà nước khá nhạt nên chu kỳ trồng- chặt phá- trồng lại… rất tốn kém và lãng phí. Thấy cái gì đang lên thì đổ xô vào làm, chưa kịp thu hoạch nó xuống lại phá đi trồng một cái giì đấy đang lên. Chưa hết, sự phân phối lao động hiện vẫn đang bị chênh lệch ghê gớm, khoảng cách giàu nghèo ngày càng doãng rộng nên nạn trộm cắp khá nhiều, nhất là trộm (thực chất là cướp) mủ cao su, cà phê chín…
    Tưởng Tây Nguyên thì đất mênh mông, té ra không phải thế. Bình quân đất trên dân của Gia Lai khá lớn nhưng phân bố không hợp lý. Đất bây giờ về cơ bản nằm trong sự quản lý của các nông lâm trường quốc doanh, và gần đây là các đại gia trong “chiến dịch” biến rừng nghèo thành đất trồng cao su. Không gian sinh tồn của dân ngày càng bị thu hẹp, họ phải đi làm thuê dưới nhiều hình thức.
   Tất nhiên vai trò của các nông lâm trường là không thể phủ nhận, ấy là của một thời. Cái thời cần khai hoang, cần mở đất, nhưng cũng chính nó tham gia phá rừng rất khủng khiếp. Bây giờ việc tiếp tục giao đất cho họ, và cho cả các đại gia, có lẽ không còn phù hợp, bởi nó sẽ hết đất dự phòng cho nông dân, cho người dân bản địa, mà số dân này ngày càng tăng, thậm chí là tăng nhanh vì điều kiện y tế, ăn ở bây giờ khá hơn, tỉ lệ nuôi sống trẻ em nhiều hơn thời trước. Thêm nữa thực chất về kinh tế thì hiệu quả không cao. Nhiều ý kiến cho rằng nhiều đại gia xông vào nhận đất rừng nghèo trồng cao su hoặc làm thủy điện thực chất là để… khai thác gỗ, chứ tư sản trong nông nghiệp rủi ro rất cao, không có nhiều lợi thế. Nếu bị vỡ thì nhà nước thì mất rừng mà ngân hàng thì mất tiền (cho vay dự án).
    Nhiều chuyên gia cũng nói với chúng tôi rằng, năng suất cây trồng trên đất Tây Nguyên hiện nay chưa cao, tính cạnh tranh rất thấp. Ví dụ 50.000 ha bắp lai được trồng ở Gia Lai, thu hoạch chừng 200.000 tấn hạt chủ yếu chỉ làm một vụ, và bán rất rẻ vì không phơi sấy được. Họ cũng cho rằng Nông nghiệp đã qua thời kỳ lớn mạnh nhờ kỹ thuật, nhờ vai trò của nông nghiệp quốc doanh; nay muốn bứt phá phải tổ chức lại cho nông dân từ sản xuất, cung ứng, thị trường, thương hiệu…. Chúng tôi biết ở huyện Chư Sê đã có 1 Hợp tác xã nông nghiệp qui mô 6 xã, 400 ha cà phê, hoàn toàn đúng bản chất HTX của nhân loại. Họ đã có tiếng nói trong làm ăn, bảo vệ được quyền lợi cho nông dân, qua vài vụ mua phân bón đã lợi cho dân được 3 tỷ đồng...
    Bên cạnh đấy phần lớn cư dân nông thôn ở Gia Lai còn ỉ lại, không phát huy tính chủ động. Cũng có lỗi do nhà nước quá dài tay, nhất là các dự án, làm xong trao chìa khóa, khi về thì các công trình cũng… vừa hỏng, mà các hệ thống nước sinh hoạt, nước tưới tiêu la liệt đắp chiếu ở nhiều làng chúng tôi đi qua là ví dụ. Theo thống kê của một chuyên gia nông nghiệp thì ở Gia Lai có đến 50% hệ thống nước sạch không hiệu quả, thủy lợi thì dân tự phá kênh mương cho nước tự chảy, nhà 134 thì chủ nhà không quan tâm… Lần chúng tôi vào xã A Yun của huyện Chư Sê, trong khi nhà thầu làm nhà 134 cho thì dân ngồi… xem, không tham gia, không góp ý. Mà mỗi cái nhà chỉ có mười mấy triệu, lại chuyển vật liệu từ xa, nếu dân không tham gia, làm xong hỏng ngay là cái chắc…
    Ấn tượng nhất khi chúng tôi rời Kon Mahar là vào khu nhà mồ của làng. Người Tây Nguyên rất coi trọng khu nhà mồ, nó là ngôi làng thứ 2 của họ, thậm chí làm nhà mồ còn kỳ khu hơn, đẹp hơn làm nhà ở. Nhưng ở đây là những nấm đất sơ sài, phía trên phủ tranh lè tè như bọn trẻ con chơi trò chơi làm nhà xem ai nhanh hơn…
    TRAO ĐỔI VỚI CHUYÊN GIA
    Mang tất cả những gì chứng kiến và thu nhận, chúng tôi có một cuộc ngồi lại với Phạm Đức Long, nhân vật đã nhắc ở đầu bài. Ông này yêu Tây Nguyên thì thôi rồi, chả thế mà ông tiếp tục nói vanh vách ngay khi chúng tôi đưa ra câu hỏi: Thế thì làm sao bây giờ? Nói ngay không đắn đo: Cần chuyển đổi, cổ phần hóa phần lớn nông lâm trường hiện nay theo hướng: Nông trường thành HTX, hoặc cổ phần hóa, bán cho dân… Lâm trường nào liên quan đến rừng tự nhiên phải bỏ ngân sách nhà nước mà giữ, không nên kinh doanh trên tài nguyên rừng loại này, vì mục tiêu của doanh nghiệp là tìm kiếm lợi nhuận bằng mọi giá, kể cả hy sinh môi trường. Chỉ lập doanh nghiệp nơi có đất rừng trồng, và không nhất thiết phải là doanh nghiệp nhà nước. Nhà nước không nên đi cày đất tranh với nông dân! Nên trả về cho dân. Cũng phải xem lại vấn đề giao đất cho đại gia, bởi có lúc sẽ mất cả rừng lẫn tiền (ngân hàng). Nên dành quĩ đất dự phòng cho nông dân nhất là dân tộc thiểu số, khi con cháu họ sinh đẻ nhiều thêm…
   Ly cà phê đã tan đá mà câu chuyện của chúng tôi vẫn chưa dứt. Long kể chính anh là người lặng lẽ giúp cho cái hợp tác xã ở Chư Sê thành hình đấy. Nó mới là thí điểm nên anh chưa lộ diện, tuy thế nghe cách nói thấy có vẻ như sự thành công đã là chắc chắn.
   Thực ra ý định của chúng tôi là định đi về làng tìm hiểu về văn hóa, xem cái sự biến chuyển văn hóa làng Tây Nguyên trong thời hội nhập này nó như thế nào, cuối cùng lại phải đụng đến vấn đề nông nghiệp và nông dân. Nhưng quả là đã về làng rồi, thì không thể không lên tiếng, khi mà, đời sống của dân, đã mấy chục năm đổi mới, mà vẫn chưa thấy đổi mới bao nhiêu…
1 comment

Tuesday, November 5, 2013

CHẤM LỬNG - 6

Ảnh: Nguyễn Tuấn Anh
    Hình như từ lúc bé tí hỉn cho đến khi hết mài đũng quần ở ghế nhà trường thì ai cũng bị “ám ảnh” bởi những câu ca dao nói về phận người ăn kẻ ở. Người ta thường hình dung chủ nhà là những ông to bà lớn, túi tiền rủng rình, quát tháo ầm ầm khi bị người làm thuê làm bẩn cái lai quần. Bởi thế cho nên khi nghe nói đến những chủ hộ trồng cà phê thuê người ăn kẻ ở trong nhà vào mùa thu hái. Ai cũng há hốc mồm nói những câu kiểu như là “Làm cà phê giàu thế kia à. Thuê cả nhân công làm luôn à”. Nếu mà lấy giá cà phê đem so với giá lúa gạo thì đương nhiên thằng làm cà phê sẽ mời thằng làm lúa một tô phở hay một bữa nhậu say tới bến. Nhưng nếu so với thu nhập của các ngành dịch vụ thì làm cà phê có đáng là gì đâu. Giờ người ta biết làm cà phê thì cần người làm thuê trong mùa thu hái nên họ hét giá nhân công lên tận trời cao....huhu. Mùa cà phê là mùa mà phát sinh nhiều câu chuyện để kể nhất.
   Có nhũng mùa cà phê không để lại ấn tượng gì cho mình cả nhưng không ít mùa thu hái mình nhớ mãi. Năm ấy, mùa cà kết thúc được hơn một tháng thì có chú hàng xóm đến chơi bảo cô Q đẻ con rồi. Cả nhà mình hồn lên tận mây xanh, run bần bật, hỏi đẻ khi nào. Chú bảo đẻ được mấy ngày rồi. Hỏi thêm con của ai, chú ấy bảo cô ấy giấu nhưng rồi cũng khai là của một người gần nhà. May phước nhà mình to nên cô ấy không bị sẩy thai trong nhà. Ai chẳng sợ ruông nhà và ma trẻ ranh.
   Ngồi ngẫm lại thì nhớ ra cô Q lúc ở nhà mình thì thường hay mang áo khoác. Nhìn ngực rung rinh và bụng hơi to nhưng nghĩ rằng tạng người cô ấy mập nên nhìn như thế. Năm ấy mùa cà trời mưa nhiều, đường lầy lội, thế mà cô ấy đạp xe đi bon bon, té xe mấy lần. Đi hái cà phê về thì nhảy nghe tiếng bịch từ moóc xe công nông xuống. Cô ấy mang vác cà rất khỏe. Hình như người ta cô tình làm việc nặng để bị động thai rồi sút sảo thì phải. Lạy trời, giờ viết những dòng này hãy còn rùng mình.
   Có năm thì thuê hai cha con nhà nọ đến ở và hái trong hai tháng mùa cà. Ông cha gần sáu mươi tuổi, thằng con thì khoảng gần hai mươi mùa mít rụng thôi. Hái đâu được nửa tháng, đang lúc hái cà nhập sản lượng cho công ty. Lịch lên dây cót rồi, cứ vậy là thi hàng thôi. Tự nhiên mấy người đó trở quẻ, hai cha con nói nhà có chuyện, xin ứng tiền và nghỉ ít hôm. Bố mẹ mình thấy lão ấy già rồi, lại nghe bảo là cựu chiến bình nên thương. Đưa tiền công mười lăm ngày và ứng tiền đủ cả tháng cho hai cha con về huyện Ea Kar. Ai dè, hai cha con nhà nớ đi luôn. Gọi điện thoại thì ò í e. Nhà mình giữa mùa cà, dở khóc dở cười.
   Năm nay, ông nội mất vào đầu mùa cà. Nói mê tín một tí thì nhà có hạn tang trắng cho nên tróc da trày vảy là điều không tránh khỏi. Dù có chuyện gì xảy ra thì không ai đánh dấu chấm than sau câu nói vì đều an phận. Nhưng mà mình ngứa mồm quá, phải gõ ra cái gì cho đỡ mệt mỏi. Mùa này, nhà mình thuê được một cắp nhân công. Người phụ nữ là cháu ruột của người hàng xóm cũ của nhà mình hồi ở dưới xã Ea Phê, Huyên Krong pak. Cô ấy đã ở nhà mình năm ngoái, còn người đàn ông thì mới lần đầu. Cô này người Hà Tĩnh, chú người Sóc Trăng. Anh trưa chợ gặp chị lỡ đường ở giữa đất Sài Gòn. Nói chung hoàn cảnh cũng tội lắm. Nhưng nhà mình không có ai là vĩ nhân cho nên không thể nào bao đồng được thiên hạ. Đành thuê sức lao động của họ thôi chứ tâm tình của họ thì không thể nào hiểu hết được. Tưởng đâu mùa cà năm nay sẽ trôi chảy, ai ngờ cô chú đó ở được hơn mười ngày thì chú kia uống rượu vào và kể lể chuyện gia đình, xin ứng tiền để đi “chuộc” con ở nhà giữ trẻ tư nhân. Nhà mình cứ nghe chuyện xin ứng tiền là tá hỏa rồi. Nghe hoàn cảnh thì thương đấy nhưng mà biết đâu mà tin. Đã thế lại còn xin ứng hai triệu. Nói thật là mùa cà năm nay nhà mình túng thiếu lắm. Hôm qua có cán bộ ngân hàng đến giám định nhà để cho vay tiền rồi. Nhưng nghe chú ấy kể thì cũng xót cho cái thân con bé nhỏ kia thật. Thôi thì lại đánh liều đem tiền cho người ta. Hai ngày sau chú ấy trở lại cùng với đứa con nít. Con nít và người già là hai đối tượng nhạy cảm với thời tiết cho nên có hai thành phần đó ở trong nhà thì luôn phải nơm nớp lo...
   Cái gì đến thì nó cũng đến, con bé sốt cao. Thế là bố nó phải tạm nghỉ để mẹ mình chở đi khám. Bữa giờ hai ba lần hú vía vì con bé đó rồi. Nói đến con bé đó là mình muốn tặng hai chữ “dơ dáy” cho mẹ đẻ của nó. Răng mình nhỏ lại thưa nên ngại phát những âm căng, sợ người ta thấy sẽ bảo mình răng thưa nói láo. Giữa hai chữ “ đĩ ” và “dơ” thì mình vẫn ưa dùng từ dơ vì lý do phát âm. Nhưng các bạn tin mình hay không thì tùy. Mẹ của đứa bé ấy rất dơ, gái miền Tây lấy chồng ở tuổi mười bảy, làm mẹ ở tuổi mười tám. Sinh nó được chín tháng thì sợ mất phoọc người cho nên bắt con bé cai sữa. Hai vợ chồng làm thuê, vốn không có dư để nuôi con thật sự đủ đầy rồi, lại thiếu sữa nên con bé còi cọc. Được hơn một tuổi thì mẹ nó bỏ hai cha con đi theo người nhiều tiền hơn bố nó. Bố nó gửi nó cho nhà giữ trẻ tư nhân, hai tháng nay bị thiếu nợ cho nên chưa đón con bé đi được. Định làm thuê ở nhà mình trọn hai tháng mùa cà rồi lãnh tiền về chuộc nó rồi bồng nó bở xứ về Hà Tĩnh luôn. Chỉ vì nghe hai từ “bỏ xứ’ nên mình mới động lòng đấy. Người miền Tây Nam bộ mà, không dễ họ bung ra hai từ đau đớn ấy đâu. Họ đã bỏ xứ thì giỗ cha tết mẹ cũng không về thắp hương ở mộ đâu. Đi là đi luôn vậy á.
   Cách đây mấy hôm vì người đàn bà dơ đó mà nhà mình lại gặp sóng gió. Cô ta gọi điện cho chú ở nhà mình bảo hết tiền và bị thằng kia bỏ rồi. Cô vợ mới của chú ấy (đang làm thuê cho nhà mình) ghen. Chú bẻ đôi cái sim điện thoại. Lại xin ứng hai trăm nghìn để mua sim và card đền cho cô vợ mới.  Sáng hôm sau hai vợ chồng lùng bùng. Nhà mình soạn lưới chuẩn bị đi hái cà nhập cho nhà hàng xóm thì chú ấy đòi bỏ về. Nói thật chứ lúc đó chỉ còn thiếu quỳ xuống mà lạy người ta nữa thôi huhu. May sao chú ấy ở lại, tối về giải quyết tiếp. Sáng đó chú không ăn mà đi làm......
Tất cả cùng cố gắng nào. Hết tháng 11 tây lịch là mùa cà kết thúc thôi. Cố lên nào. Huhu.....

Buôn Ma Thuột, sáng 5/10/2013 – Tây Nguyên Xanh
2 comments