Mọi trao đổi xin liên hệ: bientaynguyen@gmail.com

Saturday, October 4, 2014

THỨ BẢY MÁU CHẢY VỀ QUY NHƠN

  Thứ bảy máu chảy về tim. Bố khỉ cái anh nào phát minh ra câu ấy làm Tây đêm nay nôn nao...nhớ Quy Nhơn. Nhớ là bởi vì Tây nghe chuyện máu me đó từ thời sinh viên. Những tối thứ bảy như này á? Ra bờ biển trước cổng trường mà kiếm cho ra chỗ để “chỉ còn ta với nồng nàn” là cũng đủ thở bằng tai rồi. Những tối như thế này, Tây  thường mò ra các xóm trọ để bu theo các bạn nữ đi ăn chè. He he. Các bạn đẹp gái nên thương có trai đến tán. Các cô nữ chơi ác, cà khịa các cậu nam đi ăn đêm. Thường là chè, cái loại hai nghìn đồng một ly ấy. Đá không là đá, vừa ăn vừa rung đùi cho đỡ lạnh. Bố khỉ, lúc ấy lại muốn được ôm cho ấm. Ăn xong cả bọn lại rủ nhau vác xô ra biển bắt Còng (cái con như con cua nhưng bé tí tì ti) về nấu cháo. Chẳng bắt được con nào lại hò nhau ra eo Nín Thở uống nước mía. Tây nghe đồn là trước kia chỗ ấy gần như là cảng cá. Mùi ôi tanh bốc lên khiến phải bịt mũi khi chạy nhanh qua nên gọi là eo Nín Thở. Có người lại bảo là do chỗ ấy có nhiều cặp hẹn hò. Họ phải nín thở để....hôn nên gọi như thế. Tuy nhiên phía dưới eo Nín Thở có cái di tích địa điểm xuất phát chuyến tàu tập kết cuối cùng của người miền Nam ra Bắc trong thời chiến tranh nên Tây tin nín thở do cảng cá là có thật.
Tác giả ảnh: Trần Quốc Phong
   Có cái tối mà máu cũng muốn chảy về tim nữa là tối thứ sáu. Đài phun nước trước cổng nhà Văn Hóa Lao Động hay phun nước theo nhịp điệu của nhạc kết hợp với hệ thống đèn chiếu nhiều màu nên nhìn vui mắt. Thành ra sinh viên tụ tập ở đó vào tối thứ sáu để hèn hò. Lúc ấy đông nghịt, hẹn hò chán lắm. Lâu lâu hôn đánh chụt lên má của nhau được vài cái thôi chứ không “xơ múi” gì được. Chán là thế nhưng vẫn đông người là vì hẹn hò ở bãi biển thì quanh đi quẩn lại cũng ngửa mặt đếm sao trời, thẳng mặt nhìn biển Đông, môi hấp háy nói chuyện, lâu lâu lại im lặng nghe sóng vỗ. Cái lúc ngồi im như thóc ấy, các nàng cứ như chờ đợi cái ôm cái hôn nên cái sự hôn lén lên má chẳng bất ngờ như đang chú ý nghe nhạc xem phun nước. Tây là gái xấu nên hư cấu vấn đề lên thế chứ chưa hẹn hò ở đó nên không rõ đúng không he he.
   Nõi chung với sinh viên thì tối nào cũng hẹn hò nhưng thứ sáu và thứ bảy vẫn nhiều ý tưởng chơi bời nhất. Gái xấu như Tây ấy mà, suốt tối ở phòng chơi facebook hoặc biên blog tự thổi phồng cái sắc đẹp của mình lên và bêu rếu tình trạng yêu đương của sinh viên cũng như những tác hại mà người lớn vẫn hay quan ngại, he he. Thế này gọi là Tây cay cú. Hình như tối nay cũng thế. Hã hã!
Buôn Ama Thuột, 4/10/2014

Tây Nguyên Xanh 
No comments

Wednesday, October 1, 2014

ĐỒ KHỈ

Tác giả ảnh: Tuan Greenviet
  Anh thương lái gùi táo đem ra chợ bán nhưng ế nên phải mang về. Trên đường bỗng gặp một con khỉ đăng nằm vắt vẻo trên cành cây. Khỉ nói:
   - Táo ấy loài khỉ cũng ăn được. Cho xin một trái đi người ơi
   - Cho mày thì lấy gì tao bán?
   - Buôn ế mà còn chê nguồn tiêu thụ. Để vậy thối nhà chứ được gì đâu.
   - Không! Tao sẽ mua loại thuốc chống thối về tẩm vào táo. Nghe nói để chín tháng sau không hỏng. Sáng nay con buôn rỉ tai nhau có loại thuốc ấy.
   - Loài người kén ăn lắm mà. Họ biết ngay đấy.
   - Đồ khỉ, biết gì mà nói! Loài người kén quá nên lập nên cái cục gọi là bảo vệ thực vật. Cục ấy chuyên kiểm tra chất lượng táo và các hoa quả khác. Họ nói ngon thì nó ngon và dở thì nó dở. Và ngon hay dở là phụ thuộc vào lượng tiền đút vào túi họ.
   - Thế nên bọn ta mãi ở trên cây để loài người phải ngước nhìn đồ khỉ!
1/10/2014 - KHƯƠNG THỊ ƯƠNG NGẠNH
2 comments

Tuesday, September 30, 2014

LANG THANG CÙNG CON KIẾN VÀNG NHIỆT ĐỚI

TNX: Bài viết viết về con kiến vàng và thú ăn kiến của người đồng bào Tây Nguyên. Rất hay và rất đáng được lưu trữ. Vài này mình sao chép từ trang blog của nhà thơ Văn Công Hùng. Theo đó thì bài viết dưới đây là của một bác sĩ có nick Facebook là Jos Vinh, tình nguyện lên đến Tây Nguyên sống, chữa bệnh, đàn hát cho đồng bào nghe và tìm hiểu văn hoá người bản địa. Cảm ơn tác giả Vinh đã viết và nhà thơ Văn Công Hùng đã đăng nhé!
***
Tác giả ảnh: Bùi Trọng Hiếu
  Kiến vàng cũng được biết đến với cái tên kiến thợ dệt (weaver ants) thuộc chi Oecophylla gồm hai loại còn tồn tại: O. smaragdina phân bố khắp vùng nhiệt đới châu Á, Úc và một số đảo ở Thái Bình Dương; và O. longinoda phân bố vùng nhiệt đới châu Phi.
  Kiến vàng O. smaragdina thường sinh sống ở vùng rừng thưa có nhiều cây lá phiến to thuộc họ dầu, tán rừng không dày và có nhiều nắng. Chúng làm tổ trên cây bằng cách kéo các phiến lá lại với nhau và cố định bằng tơ được sản xuất từ ấu trùng của chúng (Cole & Jones 1948; Offenberg và cộng sự 2006). Một số loại cây ký chủ khác cũng được ưa thích như: xoài, cam, bưởi... cũng là những cây có tinh dầu. Khi rừng bị tàn phá, diện tích rừng bị thu hẹp, người ta phát hiện chúng làm tổ trên những cây không truyền thống như: café, hoa sữa, bơ...
  Ở Ấn Độ và Trung Quốc, các thầy lang tin rằng ăn thường xuyên kiến vàng sẽ ngăn ngừa được bệnh thấp khớp (rheumatism). Họ cũng chế một loại dầu ngâm kiến vàng, sau hơn 40 ngày các loại dầu này được sử dụng ngoài da để chữa bệnh thấp khớp, gout, nấm da... Và kiến vàng cũng sử dụng như một thuốc kích dục (aphrodisiac) (Oudhia 2002).
  Ấu trùng và nhộng O. smaragdina là nguồn cung cấp thức ăn cho những tay chơi chim ở Java. Chất dinh dưỡng từ những con kiến non sẽ làm cho giọng hót của chim hay hơn nếu là chim nuôi để hót và chim khỏe hơn nếu là nuôi chim để đá (Césard 2004).
  Kiến vàng cũng được sử dụng như một nguồn thực phẩm. Truyền thống ăn kiến nổi bật nhất là người Isaan vùng Đông Bắc Thái Lan. Việc đánh bắt kiến trở thành một nghề phụ những lúc nông nhàn và tăng thu nhập đáng kể cho cư dân tại đây.
  Dân tộc Jrai cũng có truyền thống ăn kiến từ lâu đời ! Tổ kiến vàng (hơdom sau) hái ngoài rừng về được chế biến thành những món “đặc sản”: Ấu trùng và nhộng gọi tắt là kiến non là những món quà vô giá cho những đứa trẻ và vị chua đặt biệt của con kiến trưởng thành là cái không thể thiếu được trong những món “đưa cay” của quí ông hoặc cái nhấm nháp nhâm nhi cho quí bà thèm của lạ.
  Nhưng trước khi được ăn thì phải biết cách xử lý tổ kiến ! Có ba cách xử lý:
   - Lửa: hơ tổ kiến bằng lửa, bên dưới đặt một cái nia (sing) để hứng những con kiến rơi xuống. Lửa vừa đủ để làm kiến chết mà không cháy tổ kiến bằng lá. Các chị, các mẹ vùng Krông Pa hiện nay còn có sáng kiến bỏ tổ kiến vào một cái nồi nhôm và đun lửa bên dưới. Cách làm này sạch sẽ hơn vì không lẫn tro bụi nhưng không phải là cách làm truyền thống.
   - Nước sôi: nhúng tổ kiến vào nước sôi. Kiến sẽ chết và giữ lại hương vị chua đậm đà hơn cách đốt nhưng kiến bị ướt, phải mất một thời gian phơi phong cẩn thận kẻo gió thổi thì bay mất kiến.
   - Cách cuối cùng là chịu trận cho kiến đốt ! Cái acid formic làm nên vị chua đặt biệt của muối kiến vàng “ăn một lần trong đời là nhớ” cũng là tác nhân gây nên cái đau dữ dội khi bị tiêm vào da thịt. Nọc kiến vàng chỉ thua kiến bọ nhọt, cái đau của kiến lửa chỉ là loại xoàng ! Xé tổ kiến trong một cái nia và nhanh tay sàng sảy. Cách này thường chỉ bắt được kiến non là chủ yếu, kiến trưởng thành tranh thủ lúc các cô đưa tay vào ngực, vào bụng, vào đùi... đã nhanh tay lẹ chân chạy mất. Bù lại chất lượng kiến xử lý bằng cách “chịu trận” cho chất lượng tuyệt hảo.
  Công đoạn tiếp theo là phân loại các thành phần của tổ kiến. Trước tiên phải loại bỏ tạp chất, lựa kiến đực và kiến chúa bỏ riêng không sử dụng. Những con này to, có màu xanh nhạt và rất hôi. Nếu làm muối kiến thì không thể ăn được ! Chỉ có kiến non (ấu trùng, nhộng) và kiến thợ được sử dụng làm thực phẩm.
Tụi trẻ con thường ăn sống. Chúng gỡ từng lớp lá (đã đốt) tìm những con kiến non béo ngậy bỏ vào mồm, anh nào sành điệu thỉnh thoảng thêm một con kiến trưởng thành cắn nhẹ một cái “bốp” để hưởng cái hương vị chua ngọt lịm khó tả. Rùng mình, nheo mắt lại để cái món quà Trời cho thấm vào máu thịt.
  Trịnh trọng hơn là kiến non nấu “anhăm tơpung”. Cũng tương tự như cách người Kinh nấu cháo, nhưng không phải là cháo! Gạo lúa mới ngâm vuốt kỹ, để ráo xong cho vào cối giã thành bột. Phải đun nhỏ lửa và khuấy đều tay kẻo cái hỗn hợp bột gạo - kiến non sống sít, cháy khê thì hỏng việc. “Anhăm tơpung” đặc, không loãng như cháo, gần gần giống bánh đúc nhưng mềm hơn. Lấy cái vá tre múc đổ ra “đĩa” bằng lá “tơnung”, sau một hồi thì đông lại có thể bốc bằng tay. Tuyệt đối không vị tinh bột ngọt, chỉ bỏ một tí muối mà cái mùi vị thật “đậm đà bản sắc dân tộc”.
  Kiến vàng đã trở thành đặc sản và được nhiều người biết đến khi kết bạn với bò một nắng. (Thật ra bò một nắng cũng là của Jrai, nó là sản phẩm phụ trong quá trình phơi khô nai rừng - rơsa, bò rừng - krũ, trâu rừng - mim).
  Muối kiến bán trên thị trường ngày nay khác muối kiến Jrai cổ điển. Muối khô hay ướt, ngon hay không ngon tùy theo cách xử lý tổ kiến. Điều quan trọng để một hủ muối kiến ăn được là phải loại bỏ những con kiến đực và kiến chúa. Công thức thật giản đơn: kiến vàng (hơdom sau) - muối sống (hra)- củ nén (rơsun Jrai bbođah rơsun T’rung) - riềng (rơkuah) - ớt (pơhăng).
   - Kiến vàng có thể sử dụng mình kiến trưởng thành hoặc kiến trưởng thành lẫn kiến non.
   - Muối sống: muối biển và muối đất. Xưa kia mua muối biển của người Kinh và mua muối mỏ của Lào. Hạt muối quí hơn hạt vàng: năm 1869 tại Stung Treng , một tạ ta 60 kg muối giá 20 đến 25 quan tiền! (Henri Maitre, Les Jungles Moi). Hạt muối mua về được cẩn thận cho vào ống tre treo trên giàn bếp. Khi nấu nướng, bà mẹ lấy sợi chỉ cột vào hạt muối nhúng vào nồi thức ăn, nâng lên hạ xuống vài lần như làm phép. Xong việc, hạt muối lại được trịnh trọng trả về chỗ ngự linh thiêng của “ngài”. Xin giải thích thêm: hạt muối mỏ to bằng ngón tay cái !
   - Củ nén: người Bắc gọi là hành tăm; Jrai có hai kiểu gọi tên “rơsun Jrai” - củ hành Jrai hoặc “rơsun T’rung” - củ hành T’rung. T’rung là vùng Ia Hleo, giáp Đaklak. Giã giập hoặc giã nhỏ tùy thị hiếu ẩm thực. Giã giập thì ngon hơn.
   - Riềng giã nát, vắt bỏ bớt nước.
   - Ớt phải là ớt chỉ thiên: còn gọi là ớt hiểm, ớt cứt chuột (pơhăng eh tơkuih) mới đúng điệu. Giã nhỏ thì cái cay thấm vào muối và kiến. Để nguyên trái thì cái mặn của muối, cái chua của kiến thấm vào ớt. Cắn một quả cay xé đến mang tai, nước mắt nước mũi chảy ròng ròng, mồ hôi túa ra... sướng làm sao !
  Đầu tiên giã muối hạt và riềng; sau đó là củ nén, ớt và cuối cùng cho kiến vào trộn đều. Đến đây bạn đã có một hủ muối kiến vàng chính hiệu “con kiến vàng”. Muối kiến ăn với gì cũng ngon nhưng ngon nhất là thịt nướng ! Cái này gọi là “hèm” như “con gà tục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi...” vậy.
Kiến vàng cũng được cho vào thức ăn như một loại gia vị:
   - “Anhăm hơbua” bẹ non của loài môn mọc ven suối, mặt lá nhẵn, thân màu xanh tím; ăn sống thì hơi ngứa... nấu nhừ gia thêm riềng, lá “hơyau” và không thể thiếu kiến vàng. Nếu có xương heo ninh nhừ thì ngon tuyệt. Món ăn mà người Jrai xa xứ nào cũng nhớ đến não ruột.
   - “Sõ bôh” dịch là trái cây trộn: đu đủ ( bôh pơneh) hoặc dưa hồng (bôh tơmun)... thái sợi gia muối, ớt, chanh và kiến vàng. Chừng đó thôi cũng đủ trở thành món ăn chơi phổ biến trong những ngày hè nóng nực.
Người Jrai chỉ ăn đu đủ xanh hoặc hườm, không thấy họ ăn đu đủ chín. Đu đủ chín chỉ để... cho heo ăn ! Dưa hồng theo cách gọi miền Trung thuộc họ dưa hấu nhưng trái nhỏ hơn, thường để nấu canh hoặc kho cá. Dưa hấu là “mơkai”, dưa gang là “tơmun ia”.
  Không thể không nhắc đến món gỏi “sầu đâu” nổi tiếng. Nghe đâu người Khơ-me Nam bộ cũng khoái khẩu món này ! Cây sầu đâu (Tang liang) thuộc họ xoan rừng, thân gỗ cao từ 05 - 10 mét, thân và lá như cây xoan, hoa màu trắng ngà. Lá đắng hơn lá khổ qua nhiều lần nhưng khi nuốt có cái hậu “ngọt ngào” lưu lại nơi cổ họng. Người Jrai dùng hoa và lá non trộn với cá lóc (akan chơruah) nướng. Gia vị muối ớt, củ nén và dĩ nhiên có kiến vàng. Cái ngon của món gỏi sầu đâu không chữ nghĩa nào có thể tả hết được. Phải thưởng thức một lần mới thấy thiên nhiên tuyệt vời làm sao ! Mặn - Ngọt - Chua - Cay - Đắng, năm cái “nhất” kết hợp một cách tài tình: cái ngọt của thịt cá nướng, mặn của muối, cay của ớt, đắng của lá Tang liang, chua của kiến vàng. Cái ngũ vị ấy khiến cái ngũ quan vừa ăn vừa xuýt xoa, ngũ tạng bồi hồi “trăm năm đâu dễ có ai quên”.
  Cũng họ cá lóc nhưng Jrai chia thành 03 loại theo kích lớn dần: akan bư, akan chơruah, akan rơpông; không biết phải dịch như thế nào? Tại sao Jrai thích ăn đắng: Bong anhăm phĩ kơtang, chưa lý giải được!
Lang thang theo con kiến vàng rừng khộp Tây nguyên mãi vẫn chưa tới đích. Rẽ chỗ này một tý, rong chơi chỗ kia một tý... ngó ngoáy đôi râu truyền thông tin tức. Hy vọng con người hiện đại sẽ để một nơi cho kiến vàng sinh sống. Phá rừng, thuốc trừ sâu, săn bắt kiểu tận diệt... sẽ làm cho kiến vàng tuyệt chủng. Có lẽ phận con sâu cái kiến nhỏ bé quá không mấy ai quan tâm. Nhưng con người quên mất sự cân bằng sinh thái, hủy diệt môi trường sống cũng là hủy diệt chính mình./.
Tài liệu tham khảo:
- ASIAN MYRMECOLOGY Volume 2, 129 - 138, 2008, ISSN 1985-1944 © W. SRIBANDIT, D. WIWATWITAYA, S. SUKSARD& J. OFFENBERG - “The importance of weaver ant (Oecophylla smaragdina Fabricius) harvest to a local community in Northeastern Thailand”.
- Nicolas CÉSARD, 2004 - “Le kroto (Oecophylla smaragdina)dans la région de Malingping, Java-Ouest, Indonésie:collecte et commercialisation d’une ressourceanimale non négligeable”.
***
No comments

Monday, September 29, 2014

MÙA CÀ PHÊ - Phần 3: ĐÁNH TIẾNG THUÊ NGƯỜI Ở

   Hôm qua, nông trường mời công nhân, các chủ hộ cà phê hợp đồng, chủ hộ cà phê liên kết đến phổ biến biên bản nghị quyết Hội Nghị Liên Tịch Về Việc Bảo Vệ Sản Phẩm Cà Phê Và Tài Sản Xã Hội Chủ Nghĩa. Nghe có vẻ chính trị thế chứ nó chỉ là một hội nghị thống nhất giữa lực lượng an ninh dân dân và chính quyền địa phương cũng như ban quản lý công ty cà phê về các điều khoản quy định tỉ lệ xanh – chín khi  hái từ vườn cây, phương án đảm bảo an ninh trong mùa thu hái...
Tác giả ảnh: Đức Thụy
   Công nhân là những người đóng sản lượng hằng năm và chưa ngừng đóng bảo hiểm xã hội. Những ai đã khoanh sổ bảo hiểm (ngừng đóng bảo hiểm) thì hầu hết đều nhận lại chính vườn cây cũ để vẫn làm theo kiểu hợp đồng khoán sản phẩm nên gọi là chủ hộ cà phê hợp đồng. Khi thành lập một công ty cà phê, ủy ban nhân tỉnh cung cấp cho công ty một tờ giấy phép sử dụng diện tích đất canh tác có bản đồ kèm theo. Sau đó công ty về chia thành đất cho công nhân thuê canh tác giao nộp sản phầm và đất liên kết. Phần đất liên kết vẫn thuộc công ty quản lý nhưng được cấp hoặc bán cho người có nhu cầu sử dụng. Mục đích sử dụng phần đất này bắt buộc phải là canh tác cây cà phê để đảm bảo quy hoạch diện tích trồng cây công nghiệp trên toàn tỉnh. Tuy nhiên người làm cà phê liên kết không phải giao nộp sản phẩm mà được đem về nhà. Vì không bị ràng buộc bởi các đợt nhập sản lượng nên các chủ hộ cà phê liên kết thường tận thu sớm hơn những vườn cây của người phải giao nộp sản phẩm. Hậu quả là kẻ xấu lợi dụng lý do đi lượm mót cà phê rụng ở vườn cây đã tận thu để hái trộm cà phê cây của vườn bên cạnh, gây bất ổn an ninh mùa thu hái. Vì vậy tất cả điều được triệu tập để được phổ biến quy định chung cho toàn mùa cà phê.
   Chính vì bị phụ thuộc vào đợt nhập sản lượng và thời tiết cho nên các chủ hộ cà phê hầu như phải mướn nhân công làm theo ngày (thường ra cổng chợ hoặc ngã ba để đón) hoặc thuê ăn ở lâu dài tại nhà. Hôm nọ có bạn ở Nam Định nói rằng cứ gió heo may thổi khắp trời miền Bắc thì thanh niên ngoài ấy kéo nhau vào Tây Nguyên làm thuê. Bạn ấy nói đúng đấy. Những ngày này, người ta hay gọi điện về quê nhà để hỏi xem ngoài đó có ai muốn vào hái cà thuê không. Người làm thuê được bao ăn ở, và được trả khoảng 3,5 triệu/tháng. Trước đây, người các miền còn hứng thú làm thuê ở Tây Nguyên chứ giờ họ đã thấy ngán nhiều rồi. Họ không ngán việc mà là ngán chi phí tàu xe. Tính ra tiền đi lẫn tiền về hết khoảng 1,5 triệu. Trong khi chủ hộ chỉ thuê trong khoảng 1 tháng 20 ngày thôi. Họ thuê vào khoảng thời gian cà phê chín rộ nhất và gấp gáp nộp sản lượng nhất. Các hãng xe thì thừa cơ mà đội giá vé lên gấp đôi bình thường. Chắc là đầu tháng 11/2014 này mới bắt đầu nộp sản lượng, lúc ấy mới đông người vào làm thuê.
  Những ngày chớm mùa này, người nông dân bắt đầu làm chòi cảnh vệ tại các rẫy để chống trộm. Buổi tối họ phải đi “ngủ lô” (Lô cà phê - đất được phân theo lô nên gọi thế). Hoạt động bên lề ngủ lô như thế nào thì các phần sau kể. He he. Giờ kể cho các bạn biết sơ sơ các chuyến xe nối Tây Nguyên với các miền.
  Người làm thuê ở Tây Nguyên đến từ nhiều miền quê trên cả nước nhưng có lẽ ít nhất vẫn là miền Tây Nam Bộ. Nếu có thì họ tập trung nhiều ở khu vực huyện Kiến Đức, tỉnh Dak Nông. Thường thì người di cư từ miền nào vào thì sẽ thuê người ở miền ấy vào làm thuê. Nhận thấy nhu cầu về thăm quê của người trong này và nhu cầu vào Tây Nguyên làm thuê nên các một số ông chủ đầu tư mua xe khách để chạy đường dài từ vùng nông thôn Tây Nguyên về vùng nông thôn của các miền. Họ hợp tác với bến xe của tỉnh nhưng khách không phải mua vé ở bến xe mà mua ở một đầu nậu ngay gần nơi khách ở và lên xe tại nơi mua vé. Ví dụ như người viết bài này sẽ lên chuyến xe chạy từ huyện Krong Pak (tỉnh Dak lak) về thẳng Chợ Tro (huyện Nam Đàn, Nghệ An). Người Thái Bình thì có xe về tận Quỳnh Phụ... Người Quảng Trị có xe về chợ Đông Hà.... Cả điểm xuất phát và điểm dừng đều không phải là bến xe khách của các tỉnh. Các xe lúc từ trong này đi ra thường rẽ qua quốc lộ 29 qua huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên để đón khách miền Bắc ở đó, hoặc chạy qua quốc lộ 19 rồi men theo quốc lộ 1A kiếm tí “cháo” nhờ khách đi dường ngắn và để “bồi dường” cho các đồng chí cảnh sát giao thông dãi nắng dần sương đứng chi chít ở các tuyến đường. Khi trở vào thi đa số chạy theo đường mòn Hồ Chí Minh để trả khách trên toàn khu vực Tây Nguyên.
  Có người đã từng nói rằng người trồng cà phê giàu thế, thuê cả nhân công, nhiều cà phê thế cơ à. Không phải nhiều mà là thời tiết và tiến độ nhập sản lượng phải theo quy định nên cần người làm giúp cho nhanh. Nhiều cà nên phải thuê thì vẫn có người như thế nhưng đó gần như là những người có đất nhờ khai hoang. Không bị ràng buộc bởi các nông trường quốc doanh. Có được một hột cà phê cũng nhọc lắm, các bạn ạ.
***
Buôn Ma Thuột, 29/9/2014
Tây Nguyên Xanh
Bấm vào Phần 1Phần 2 để theo dõi từ đầu.
2 comments